Đường đi Cô khật, anh Trần Quốc Việt (xóm 9, Vũ Tây, Kiến Xương, Thái Bình) dẫn tôi ra phía sau nhà.
Phía trái ngôi nhà chính như một thế giới khác, không có dấu chân người, ẩm ướt, âm u và nước bọt.
Núp sau những cây bạch đàn nghiêng ngả, những cây xoài um tùm, là một ngôi nhà thoải mái bằng xây dựng và một nhà cấp 4 lắng thoải, tạo nên vẻ hoang tàn đổ nát.
Giữa sân rào, trơn trượt, là cây hương nhỏ, lạnh nhẹ khói hương, lâu lắm không ai chăm sóc. Cách tường tường gạch, viền bờ ao, trong vườn, là ngôi miếu nhỏ nữa cũng lạnh sống lưng.
Bố đẻ anh Việt là ông Trần Văn Rạng và mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị Đào. Ông bà sinh tới 8 người con, gồm 4 trai, 4 gái. Ông bà làm nông nghiệp, nên con cái cũng chỉ có được ăn miếng mà lớn, chứ nghĩ được học hành hành gì nhiều. Cả đời ông bà nỗ lực quần đông nuôi con, rồi lần lượt xem vợ gả chồng cho 8 người. Một người con trai bỏ xứ vào Nam lập nghiệp, anh Việt làm bảo vệ cho một công ty nhà nước ở thành phố Thái Bình. Người anh cả và thứ 3 ở mảnh đất này với ông Rạng bà Đào. Người dùng con gái cũng đi lấy cả. Cô lấy chồng ở Tây Nguyên, cô lấy chồng ở xã khác, xóm khác.
Dù con cái chỉ làm nông nghiệp, gắn bó với cây lúa, củ khoai, song do chắt chiu tích cóp, nên những người của ông bà cũng tăng dần ổn định cuộc sống, xây dựng, sửa sang nhà cửa.

Người con cả Trần Văn Viết được ông bà Rạng chia cho mảnh đất trước ngôi nhà ngói ông bà ở. Vợ chồng anh Viết đã xây dựng một ngôi nhà dù là cấp 4, song rộng rãi khang trang, tường bao bá tước kín. Sau này, khi anh Viết qua đời, cả nhà gặp họa, thì ngôi nhà bỏ hoang. Nhà cửa thiếu hơi nước, thư giãn, mối mọt, nhiều cơn bão lốc, bãi cát, chỉ còn lại là dấu tích với đống đổ nát ngổn ngang.
Cậu con trai thứ 3, tên là Trần Văn Út, sau khi lấy vợ vài năm, sinh con đẻ cái, tích cóp được ít tiền, đã xin bố mẹ cho ra ở riêng. Đất đai rộng rãi, nên ông bà Rạng đã cắt một mảnh rộng chừng 200 mét vuông, phía sau về bên trái nhà của ông bà cho bạn con tưởng tượng là nhỏ gọn, ai dè chỉ là thứ 3.
Có đất rồi, anh Trần Văn Út dựng tạm một ngôi nhà cấp 4 nhỏ nhỏ, chỉ kích thước 30 mét vuông ở tạm thời. Ngôi nhà ngay bờ biển, phía trước nhà là cái miếu nhỏ nhỏ, giống như cây hương trước nhà. Lịch sử ngôi miếu nhỏ này cũng rất rõ ràng, đó chỉ là ngôi miếu của gia đình, do thế hệ trước xây dựng nên.
Để hiểu rõ về ngôi miếu này, phải nắm được ngôi miếu ở phía bên kia cái ao nhà ông Rạng. Đó là ngôi nhà của các cụ nhà ông Rạng, cùng một số dân làng xây dựng nên gọi là miếu Thần Linh.
Ngôi miếu Thần Linh vốn thờ 3 mẹ con người ăn mày. Hồi năm 1945, tình trạng chết đói diễn ra khắp vùng quê lúa. Năm đó có 3 mẹ con ăn Bạn lang thang đến ngôi làng này xin ăn. Dân làng cũng đói nên họ nghĩ xin được gì. cảm giác đói cồn cào, nên cậu con của bà ăn đậm lên cây sung sướng ra bờ biển ao để hái sung ăn. Tuy nhiên, chưa hái được quả sung nào, thì cậu bé trượt chân, ngã xuống ao. Người đã thấy liền kề nhảy xuống để cứu em. Tuy nhiên, ao sâu nước cả, hai anh tăng dần chìm nghỉm xuống nước. Người mẹ dù đói lả, không nổi chân, nhưng thấy 2 con chìm dưới dòng nước, liền chuyến sức nhảy xuống. Rốt cuộc, cả 3 mẹ con đã chết dưới ao.
Người dân trong xóm thương tổn, đã che chắn 3 mẹ con lên, bó tham khảo cửa hàng cận cảnh ngay bờ ao. Năm đói trôi qua, người dân làng may mắn ít người phải chết đói. Nghĩ rằng, do 3 mẹ con ăn mày phù hộ, dân làng mới không chết đói, nên đã xây dựng một ngôi miếu nhỏ để thờ. Gia đình ông Rạng vừa giữ vai trò chủ trì, vừa đóng góp xây dựng ngôi nhà miếu.
Sau này, mái miếu trở thành nơi tập trung tâm linh của các hộ dân trong xóm. Ngày rằm, ngày lễ, dân dân đều hương khói chug tại ngôi miếu nhỏ này. Từ ngôi miếu thờ 3 mẹ con ăn mày, đã từng gọi là thờ ma đói, đã biến thành miếu thờ thần.